• Bạn phải đăng nhập để sử dụng bookmark
Tùy chỉnh

Tập 07: Tiến về vùng đất phía nam

Chương 133: Công chúa Kurmelia ghé thăm đây~

2 Bình luận - Độ dài: 6,228 từ - Cập nhật:

Khu vực phía nam đầm lầy có địa hình giống như lục địa châu Phi mà Vandalieu từng thấy trên TV, với bầu không khí trong lành và lớp đất đỏ đặc trưng. Tuy nhiên, đó chỉ là cảm nhận dựa trên hình ảnh về châu Phi mà cậu từng thấy trên màn ảnh nhỏ. Thực tế thì nơi này khác biệt khá nhiều.

Rừng cây, đồng cỏ và thảo nguyên đan xen nhau như ô bàn cờ, tuyệt nhiên không hề có sa mạc. Các dòng suối chảy từ đầm lầy và những con sông bắt nguồn từ Dãy Núi Biên Giới hai bên trái phải khiến vùng đất này không hề khô cằn.

Dù hiện tại đang là mùa hè, khí hậu nơi đây vẫn mát mẻ hơn hẳn so với đầm lầy đầy hơi ẩm. Mà nói cho đúng, thì ngay cả ở Trái Đất, châu Phi cũng không phải toàn là nắng nóng—những khu vực cao hơn mực nước biển nhiều thì thậm chí còn mát hơn cả Nhật Bản. Dĩ nhiên, Vandalieu thì không biết điều đó.

“Các thành phố của chúng tôi đều là quốc gia độc lập. Nói cách khác, chúng tôi đã thiết lập mô hình thành-bang, như những gì được dạy” Gizania giải thích.

Theo lời cô, toàn bộ các quốc gia, kể cả đế chế Noble Orc, đều chỉ bao gồm một thành phố lớn. Trường hợp có làng mạc hay khu định cư nhỏ thì cực kỳ hiếm, và cũng không phát triển thành thị trấn.

Lý do là bởi khu vực xung quanh đều là Tổ quỷ (Devil’s Nest)—những nơi đầy rẫy quái vật hoành hành, nên không thể duy trì cộng đồng quy mô nhỏ được.

Thực tế, phần lớn quái vật ở đây đều là Rank 4. Tuy chỉ cao hơn một bậc so với khu vực quanh Talosheim và đầm lầy, nhưng nếu Rank 3 được ví như gấu thì Rank 4 chẳng khác nào khủng long bạo chúa—sự chênh lệch về mức độ nguy hiểm là quá rõ ràng.

Ngay cả đối với Arachne hay Noble Orc, việc duy trì các khu định cư nhỏ không có năng lực chiến đấu ở những vùng đất như thế này cũng không đem lại lợi ích gì đáng kể.

“Nghĩ lại thì, đúng là chúng ta may mắn thật. Trước khi bị hủy diệt, ta nhớ đã từng lập ra mấy ngôi làng khai khẩn” Borkus nói.

“Rủi ro các chiến binh trẻ tuổi mất mạng vì quái Rank 4 cũng cao nữa” công chúa Levia tiếp lời.

“Bọn ta cũng từng sống trong Tổ quỷ, nhưng… hầu như ai cũng có thể chiến đấu” Zadiris nói.

“Với lại, phần lớn quái xung quanh yếu hơn cả các chiến binh trẻ, hoặc ít nhất cũng có thể đánh bại nếu phối hợp nhóm. Còn ở đây thì khác” Vigaro nhận xét.

“Nói thật, nếu ta có quay về một mình, kể cả không bị thương, thì chắc chắn cũng không làm nổi” Gizania nói. “Vì nơi này có những con tấn công theo bầy nữa. Tất cả là nhờ các người giúp đỡ… Một lần nữa, cho ta gửi lời cảm ơn… À mà, người kia có ổn không? Từ lúc tách khỏi Legion-dono xuất hiện hồi sáng, trông cậu ta cứ xanh xao thế nào ấy” cô vừa nói vừa quay sang nhìn Kurt Legston với ánh mắt lo lắng.

Kurt là em trai của Chezare và hiện đang giữ chức trung tướng—trên thực tế là phó thủ tướng của Talosheim. Giờ thì anh đang ngồi thụp xuống, mặt tái mét, tay che miệng.

“Chắc không sao đâu. Ta đã cho anh ấy uống thuốc rồi, chắc sẽ sớm khỏe lại thôi” Vandalieu đáp.

Lý do Kurt có mặt tại đây là vì Vandalieu đã dùng 【 Dịch chuyển 】của Legion để về lại Talosheim báo cáo tình hình, rồi theo chỉ đạo của Chezare, Kurt được cử đến làm đại diện ngoại giao.

Tất nhiên, bằng cách dịch chuyển… trong lúc bị chôn trong thịt của Legion.

Kết quả là giờ đây anh đang ôm bụng nôn nao, không khác gì người say tàu xe.

“Tôi nghĩ như vậy còn đỡ hơn là bị côn trùng hay hạt giống ký sinh và trang bị bên trong người bệ hạ, nhưng… đúng là khủng khiếp thật” anh rên rỉ.

Xem ra, bị chôn trong cơ thể Legion gây ảnh hưởng tinh thần nghiêm trọng hơn cả việc bị côn trùng bò lổm ngổm khắp người. Mặc dù với Vandalieu, mỗi lần được Legion ôm là cậu cũng nửa chìm trong thịt đấy, mà cậu chẳng thấy có gì khó chịu.

“Tôi là quan văn mà… Không phải Ani-ue (anh trai) hợp với chuyện này hơn tôi sao? Nhưng cũng hiểu là cả bệ hạ lẫn Ani-ue, người gần như là thủ tướng, không thể cùng vắng mặt” Kurt lẩm bẩm. “À, lần sau quay về thì cứ cho tôi ký sinh côn trùng cũng được. Tự đi bộ qua cái nơi đầy quái Rank 4 thế này thì không thể nào.”

Nói đoạn, anh từ từ đứng dậy—xem chừng thuốc chống say đã phát huy tác dụng.

“Ổn chứ? Cần thì cứ nằm nghỉ một lát đi” Borkus đề nghị.

“Không ổn lắm… nhưng tôi không thể ngủ được. Tình hình đang trở nên nghiêm trọng, và bên đối phương cũng không phải dạng vừa” Kurt đáp, ánh mắt hướng về phía xa—nơi có thể nhìn thấy quốc gia của Gizania, mang tên Zanalpadna, giống với tên vị thần mà họ thờ phụng.

Nhìn những bức tường thành cao vút gấp đôi Talosheim, đủ để ngăn cản quái vật bên ngoài, có thể thấy quy mô của Zanalpadna còn lớn hơn cả thành phố Niarki ở Công quốc Hartner—nơi có dân số lên tới một trăm ngàn.

Dù vẫn kém Nineland—thành phố có dân số hàng triệu—nhưng Zanalpadna quả là một thành-bang đáng nể.

“Nhưng chúng ta cứ thế tiến vào từ cửa chính thì có ổn không?” Kurt hỏi.

“Hay là ta nên chờ bên ngoài thì hơn?” Gorba góp ý.

Cả hai đều có vẻ lo lắng. Ở các quốc gia loài người, cho dù không có quan hệ ngoại giao, họ vẫn sẽ đảm bảo an toàn cho sứ giả. Nhưng Zanalpadna và Talosheim thậm chí còn không hề biết đến sự tồn tại của nhau cho đến vài ngày trước.

Thêm vào đó, Gorba cùng các thành viên Đội Kỵ Sĩ Nanh Đen đều là Orcus—nếu không để ý kỹ thì rất khó phân biệt họ với Orc thông thường, ngoài màu da đen và vóc dáng to lớn.

“Không sao đâu” Gizania quả quyết, giọng chắc nịch. “Vandalieu-dono, tạm thời hãy giữ lấy thứ này rồi đi cùng ta.”

Nói rồi cô rút từ túi ra một chiếc vòng cổ trông như huy chương trong suốt, sáng bóng, có sợi dây trắng óng ánh buộc vào, rồi đưa cho Vandalieu.

“Cái này là gì vậy?” Vandalieu hỏi.

“Là vòng cổ—một chiếc huy chương được làm từ lớp da quanh mắt kép của ta khi thay xác, dùng tơ ta tự dệt làm dây” Gizania đáp. “Nó gọi là ‘vòng cổ thâm tình’, là minh chứng cho mối quan hệ thân thiết với một Arachne—trong trường hợp này là ta. Basdia cũng có một chiếc như vậy.”

Xem ra Arachne khổng lồ tuy không giỏi sử dụng tơ trong chiến đấu hay bẫy rập, nhưng không có nghĩa là họ không thể tạo ra tơ.

Mà giờ nghĩ lại, Gizania đưa vòng cổ cho Basdia từ lúc nào nhỉ? Có vẻ hai người họ đã trở nên thân thiết theo kiểu tri kỷ, vượt xa mức bạn bè thông thường.

“Vậy thì ta xin nhận với lòng biết ơn” Vandalieu nói, rồi đeo chiếc vòng cổ làm từ mắt kép lên cổ.

Sau đó, cậu thử leo lên phần thân nhện phía dưới của Gizania… nhưng lại bị cô bế lên, ôm trước ngực.

“Nếu ngồi phía sau, thì sẽ bị phần thân trên của ta che mất” Gizania giải thích. “Thôi nào, xuất phát thôi. Mọi người, theo ta. Để đề phòng, Gorba-dono cùng đồng đội, hãy hạ vũ khí và giữ bình tĩnh cho thú cưỡi. Borkus-dono, Bone Man-dono… xin đừng gỡ mũ giáp.”

Phía sau Gizania, không khí có phần căng thẳng.

Có lẽ, đến thăm một quốc gia hoàn toàn xa lạ về chủng tộc thì khó mà không hồi hộp.

“… Không lẽ Vandalieu-sama lại làm gì đó nữa rồi?” Eleanora lẩm bẩm.

“Lần trước cũng có vụ với Privel nữa, nên không thể loại trừ khả năng” Zadiris bình luận. “Có khi lại vô tình thực hiện nghi thức cầu hôn của họ cũng nên.”

“Privel-jouchan mà biết thì sẽ làm ầm lên cho coi. Gizania cũng tám chân đấy” Borkus nói chen vào.

“Cô ấy đâu chỉ làm ầm. Còn tăng cả số buổi tập huấn lên kìa” Kurt lắc đầu. “Lúc bệ hạ quay về bằng Legion, có kể lại là đã cứu một Arachne. Nếu chuyện này giúp ích cho ngoại giao thì cũng đáng thôi.”

Bốn người thì thầm với nhau, bàn tán xem liệu Vandalieu lại "thu phục" thêm một người nữa hay không.

“Vậy à? Với ta thì không thấy gì đặc biệt. Cứ như chị gái ôm em trai thôi. Chẳng có cảm giác lãng mạn gì cả” Vigaro lên tiếng. Gần đây, đời sống đêm của anh cũng phong phú hơn sau khi trở thành Arch-Tyrant.

Kurt liếc nhìn anh với ánh mắt nghi hoặc, nhưng thực tế thì Vigaro lại là người có kinh nghiệm yêu đương nhiều nhất ở đây. Zadiris và Eleanora liếc nhau, có vẻ cũng đang cân nhắc lời anh nói.

“Gizania hình như chưa từng sinh con. Arachne khổng lồ sống lâu, với lại cô ấy từng từ chối lời khuyên của mẹ và chị gái, vì muốn rèn luyện võ nghệ thêm trước đã” Basdia—người đã trở nên thân thiết với Gizania—nói.

“Vậy thì—” Eleanora định nói “không cần lo gì cả” thì bị Basdia cắt lời:

“Chính vì vậy, sau khi suýt chết lần này, cô ấy định sẽ suy nghĩ nghiêm túc về lựa chọn cuộc đời. Sau khi trả hết ơn cho Van.”

“… Basdia, cậu đứng về phe nào vậy?” Eleanora hỏi.

“Tớ thấy thế nào cũng có thể xảy ra ấy chứ” Basdia đáp. “Vì cô ấy còn hỏi tớ cảm giác sinh con và nuôi con là thế nào nữa cơ.”

Basdia—chiến binh nữ—là mẹ của bé gái tên Jadal. Hiện giờ bé đang được Bilde, một người bạn kiêm bà mẹ khác, chăm sóc ở Talosheim, chờ ngày Basdia trở về.

“Ừm, đúng là cô ấy được cứu lúc gặp nguy hiểm thật, nên nếu có gì nảy sinh thì cũng đâu lạ. Tuổi thọ lại dài nữa, nên lệch vài tuổi cũng chẳng sao” Zadiris nói, bản thân bà cũng từng được Vandalieu cứu mạng khi mới gặp.

Với Gizania, Vandalieu trông giống mồi nhử giả trên bụng con rết hơn là một hoàng tử cưỡi bạch mã, nhưng… không thể phủ nhận rằng đó là một cuộc gặp gỡ đầy ấn tượng.

“Chắc cũng đúng nhỉ. Giờ nghĩ lại thì, chỉ cần Vandalieu-sama không thấy vấn đề gì thì chuyện thế nào cũng được cả” Eleanora nói.

Basdia và Zadiris là những Ghoul, tộc vốn không có khái niệm kết hôn. Ngay cả hiện tại, họ vẫn xem bạn đời như người cùng nuôi dưỡng con cái. Còn Eleanora thì tự xem mình là người hầu của Vandalieu.

Với họ, kết cục ra sao cũng chẳng quan trọng.

“… Nếu tín đồ của Alda mà nghe được mấy lời này, chắc máu lên não tới mức vỡ mạch máu mất” Kurt lầm bầm. Là người xuất thân từ một gia tộc bá tước, anh có cái nhìn rất truyền thống và chuẩn mực về hôn nhân.

“Không, tôi nghĩ Kasim mới là người đáng lo. Thằng nhóc đó chắc ngất xỉu tại chỗ luôn” Borkus chen vào.

“Mọi người gan dạ thật đấy” Gorba thì thào.

“Chắc là trong tim họ mọc ra cả bờm sư tử rồi” một Orcus khác bình luận.

“Không phải là lông mọc trong tim sao?* Nhưng mà, nếu là Borkus-dono thì đúng là có thể mọc bờm thật” Bone Man góp lời.

*Chú thích: Thành ngữ “tim mọc lông” ở đây mang nghĩa “thần kinh thép.”

Có vẻ những người căng thẳng nhất lại là các Orcus và Bone Man.

Với việc tộc Arachne đang là kẻ thù của Đế quốc Noble Orc dưới sự thống trị của hoàng tử thứ hai Bugitas – kẻ tiếm quyền – Gorba cùng các Orcus khác nếu không cẩn thận thì rất dễ bị hiểu lầm là địch.

Còn Bone Man thì gần như chắc chắn sẽ bị tấn công nếu người ta phát hiện hắn là Skeleton.

Tộc Arachne thờ phụng Vida, vị thần chấp nhận cả Undead, nhưng điều đó không đồng nghĩa với việc họ có thể thuần hóa Undead như Vandalieu. Nếu một Skeleton cấp cao xuất hiện từ bên ngoài quốc gia và tiếp cận, thì việc ưu tiên phòng thủ thay vì cố gắng đàm phán (vốn khả năng thành công gần như bằng không) là chuyện quá đỗi bình thường.

… Lẽ ra Borkus, một Zombie Epic Hero, cũng nên bị đối xử như vậy. Nhưng dù có đang đội mũ giáp che kín mặt, hắn lại chẳng có vẻ gì là căng thẳng cả. Chẳng lẽ chức năng “lo lắng” của hắn đã ngừng hoạt động cùng với tim phổi luôn rồi sao?*

*Chú thích: Đây là một cách chơi chữ. “Chức năng tim phổi” và “chức năng lo lắng” trong tiếng Nhật đều đọc là shinpai kinou.

Không hề hay biết mấy cuộc trò chuyện phía sau, Gizania vẫn tiến thẳng về phía tường thành.

Khi lại gần, những bức tường trông như được xây bằng đá nặng, nhưng Vandalieu lại liên tưởng đến các bức tường đá được xây khéo léo của những tòa thành kiểu Nhật.

Hồi còn sống ở Trái Đất, cậu chỉ thấy những bức tường đó qua màn hình, chẳng mấy ấn tượng. Nhưng đến lần sống thứ ba này, khi trực tiếp chứng kiến, cậu mới nhận ra nét đẹp mộc mạc, giản dị trong cách các khối đá lớn nhỏ ghép lại với nhau mà không để hở chút nào.

Tường thành ở Talosheim do chính Vandalieu tạo ra bằng cách biến chúng thành Golem, nhìn sơ qua thì chỉ là những khối đá nguyên khối, không có hoa văn gì. Có lẽ vì thế mà cậu mới thấy tường thành ở đây đẹp đến vậy.

Nhưng rồi cậu để ý thêm một điều khác.

“Không có cổng… hay lối vào nào à?” cậu thắc mắc.

Không thấy bất cứ cánh cửa hay cổng thành nào. Chẳng lẽ họ sẽ bò qua tường như nhện?

“Vì được ngụy trang đấy. Nhưng chắc sắp mở rồi” Gizania đáp.

Vài giây sau, một phần tường thành bất ngờ mở ra từ bên trong. Một nhóm Arachne vũ trang, cùng một cô gái thuộc chủng tộc mà Vandalieu chưa từng thấy, bước ra.

“Những bức tường đó được ghép lại bằng tơ của Arachne. Có cửa sổ trinh sát và các cổng đủ kích cỡ được ẩn giấu trong đó, trông giống hệt như phần còn lại của tường” Gizania giải thích.

Nhìn kỹ lại, lớp đá chỉ là một lớp mỏng ở bề ngoài phần tường vừa mở ra.

Có vài loài nhện làm tổ trong đất rồi dùng lớp nắp ngụy trang y như mặt đất thật để che tổ—có lẽ đây là cách làm tương tự.

“Gizania-dono! Cô còn sống!”

“Tốt quá rồi! Công chúa đã rất khổ tâm vì không thể mang cô về—”

“Khoan đã! Việc Gizania quay về đúng là tin mừng, nhưng trước tiên, ta cần biết tình hình đã!”

Một Arachne nhỏ hơn Gizania khá nhiều định lao tới, nhưng bị chặn lại bởi bốn cánh tay của cô gái tộc lạ kia.

Phải, bốn cánh tay.

Thoạt nhìn cô ta giống một người phụ nữ cao lớn bình thường, nhưng ngoài hai cánh tay người bình thường ra, còn có thêm hai cánh tay với khớp xương bọc giáp ngoài, kết thúc bằng những lưỡi hái sắc lẹm.

Trên lưng cô là đôi cánh trông giống một tấm áo choàng xếp lại, và từ đầu gối trở xuống, đôi chân cô là chân côn trùng.

Tựa như sự kết hợp giữa bọ ngựa và phụ nữ—hay có thể nói là một “nữ bọ ngựa” được nhân hình hóa. Không có tư liệu nào trong đế quốc Amid hay vương quốc Orbaume từng ghi nhận về tộc này.

Tuy nhiên, Gizania đã từng giải thích cho Vandalieu và nhóm của cậu, nên họ biết rõ thân phận của chủng tộc này.

Empusa—một chủng tộc của Vida, giống như Arachne, có nguồn gốc từ quái vật… và cả thần linh.

Ngày xưa, Zanal – tà thần của lớp giáp ngoài – và Padna – tà thần của mắt kép – đã rời khỏi quân đội Ma Vương để theo lời mời của chiến binh Zakkart, cùng với Fidirg – Long thần ngũ tội – và Merrebeveil – tà thần của slime và xúc tu.

Tuy nhiên, trong các trận chiến tiếp theo, Zanal và Padna đã bị Ma Vương Guduranis tấn công và trọng thương đến mức không thể phục hồi.

Hai vị thần vốn có mối quan hệ gắn bó sâu đậm đã hợp thể thành một để vượt qua thương tích—và từ đó trở thành Zanalpadna, tà thần của giáp ngoài và mắt kép. Có lẽ vì từng là hai vị thần tách biệt, nên khi được Vida yêu cầu tạo ra một chủng tộc mới, họ lại sinh ra hai đứa trẻ sinh đôi—một trở thành tổ tiên của Arachne, một trở thành tổ tiên của Empusa.

Cả Vida lẫn Zanalpadna đều rất vui khi vô tình tạo ra hai chủng tộc thay vì một.

Sau đó là cuộc chiến giữa Vida và Alda một trăm ngàn năm trước, dẫn đến tình hình hiện tại. Có lẽ vì toàn bộ tộc Empusa trên đại lục Bahn Gaia đã bị tiêu diệt từ hàng chục ngàn năm trước, hoặc đã trốn đến nơi con mắt các chủng tộc khác không thể chạm tới, nên chẳng còn ghi chép nào về họ.

Không giống Ghoul, họ không được xem là quái vật. Ngay cả Bellmond – đã thành Vampire từ mười ngàn năm trước – hay Borkus và Mikhail – những mạo hiểm giả từ hai trăm năm trước – cũng chưa từng nghe về họ. Chỉ có Isla, người đã sống hơn ba vạn năm và hiện đang trông coi pháo đài Knochen, mới lục lọi trong ký ức để nhớ lại truyền thuyết mơ hồ về những sinh vật có hình dạng tương tự.

Rất có thể họ từng bị đối xử như quái vật và bị tận diệt từ lâu.

Sau khi biết điều đó, Gizania chỉ biết rùng mình trước sự đáng sợ của thế giới bên ngoài.

“Myuze-dono, những người này không phải kẻ đáng ngờ” Gizania lên tiếng.

“Ta không nghi ngờ gì cả. Người cô đang ôm là một Dhampir, trên cổ cậu ta có đeo chuỗi hạt tình thâm. Cô Ghoul đi phía sau cũng có một sợi giống vậy. Tuy nhiên, nếu chưa rõ ngọn ngành thì ta không thể để họ qua được” Myuze – cô Empusa với ánh nhìn sắc bén và mái tóc buộc đuôi ngựa trên đỉnh đầu – đáp lại. Có vẻ cô là đội trưởng đội canh gác cổng.

*Chú thích: Myuze kết thúc câu bằng “de gozaru”, một lối nói cổ trang, trang trọng.

“Đương nhiên, bọn tôi sẽ giải thích” Gizania nói. “Có nhiều chuyện nghe rất khó tin, nhưng mong cô hãy kiên nhẫn đến cuối.”

Myuze bật cười. “Ta đã làm nhiệm vụ này mấy chục năm rồi. Ít có chuyện gì khiến ta kinh ngạc lắm.”

Trông có vẻ nghiêm nghị, nhưng Myuze lại là người thân thiện. Thế nhưng, càng nghe Gizania kể, nét mặt cô càng biến đổi.

“C-cái gì…! Chuyện đó là thật sao! Nhưng mà, thực sự có côn trùng và thực vật đang chui ra chui vào cơ thể của một Dhampir ngay trước mắt ta!”

Khi Myuze thay đổi đủ loại biểu cảm, Vandalieu liền điều khiển Pain và Eisen mọc ra từ người mình bằng kỹ thuật 【 Ràng buộc côn trùng 】 và 【 Ràng buộc thực vật 】 để chứng minh lời Gizania là thật.

Tiếng click click và rắc rắc vang lên khi đầu của Fur Worm Pain và những nhánh cây của Eisen ló ra từ trong áo Vandalieu, khiến Myuze không còn nghi ngờ gì được nữa.

“Cậu bé này là Spider Tamer mà không cần có thần hộ mệnh từ Zanalpadna ư?!” một Arachne kinh ngạc thốt lên.

“Khoan đã! Chức nghiệp Spider Tamer và Mantis Tamer chỉ cho phép thuần phục quái vật nhện hoặc bọ ngựa thôi mà! Không đời nào lại cho phép thuần phục cả côn trùng dạng sâu—chứ đừng nói đến chuyện cho chúng chui ra chui vào cơ thể!” một Arachne khác phản bác.

Các Arachne cũng kinh ngạc không kém Myuze. Dường như một số loài quái vật côn trùng vốn không thể thuần phục bên ngoài dãy núi Boundary lại có thể được thuần hóa bởi Arachne và Empusa nếu họ có thần hộ mệnh của Zanalpadna và chức nghiệp chuyên dụng.

Điều đó cũng dễ hiểu—Zanalpadna là thần tổ đã tạo ra các chủng tộc quái vật côn trùng.

Có vẻ những loại thần hộ mệnh tà thần và các chức nghiệp đặc thù gắn liền với chúng chưa từng được nghiên cứu bên ngoài dãy núi Biên giới. Có thể người ta chỉ cho rằng đó là khả năng đặc biệt của quái vật mà thôi.

“Chuyện này… vượt ngoài quyền hạn của ta. Ta sẽ xin ý chỉ của Nữ hoàng. Mong các vị chờ tại đây một lát” Myuze nói.

“Vâng, tôi hiểu” Vandalieu gật đầu.

Vandalieu và đồng đội vốn đã chuẩn bị tinh thần sẽ bị giữ lại chờ dù có được tin tưởng, nên không có gì phàn nàn. Họ quyết định kiên nhẫn đợi.

Một sinh vật đi ngược lại mọi kiến thức thông thường, tự xưng là vua của một quốc gia chưa từng biết đến, lại đến để đề nghị viện binh. Chỉ riêng việc họ tin lời Vandalieu là đã quá thành công rồi.

“Ừm, vậy thì, có người đi báo cho Nữ hoàng đi. Cũng chuẩn bị chút nước uống và đồ ăn nhẹ cho khách nữa” Myuze ra lệnh.

Hai Arachne nhanh chóng biến mất sau cổng thành. Có vẻ một người đi báo tin, người kia đi chuẩn bị trà bánh.

“Trong lúc chờ, ta có thể hỏi vài chuyện được không?” Vandalieu lên tiếng.

“Đương nhiên rồi, Thánh tử-dono” Myuze đáp.

Vandalieu lại thấy hơi khó chịu khi bị gọi như vậy, nhưng có chuyện quan trọng hơn khiến cậu phải bỏ qua cảm giác đó.

“Chẳng hay, Myuze-san có phải đã nhận chức nghiệp Ninja không?”

Dù đôi cánh và cánh tay lưỡi hái của Myuze khá nổi bật, nhưng bộ đồ cô mặc trông hơi giống kimono dạng ngắn. Dưới lớp áo là thứ gì đó giống áo giáp lưới, và ở đùi cô còn có đai đeo vũ khí dạng phi tiêu.

Đó là lý do Vandalieu đoán cô có thể là ninja và hỏi thử, nhưng Myuze chỉ lắc đầu.

“Ta thì chưa. Một kẻ non nớt như ta còn xa mới được gọi là ‘ninja’, hay thậm chí chỉ là ‘nin’” cô nói.

*Ghi chú: Chữ kanji (nin) mang nghĩa “nhẫn nại/kiên nhẫn”.

“Vandalieu-dono, Myuze-dono và những người khác là Kunoichi” Gizania tiếp lời.

Có vẻ trong hệ thống chức nghiệp của thế giới này, Ninja và Kunoichi được phân biệt khá rõ ràng.

Theo lời Myuze và Gizania, chức nghiệp Kunoichi tương tự như chức nghiệp Samurai – một chức nghiệp được tái hiện từ những ghi chép về ninja mà Hillwillow, vị Dũng sĩ được nữ thần đại địa và nghề thủ công Botin chọn, đã để lại.

Tuy nhiên, nếu xét theo những thông tin trong các bản ghi chép ấy, thì cái gọi là ninja đó còn khác biệt với ninja thật sự hơn cả những võ sĩ bushi.

“Người ta nói rằng ninja chân chính là bậc thầy của đủ loại ảo thuật và kỹ năng đặc biệt gọi là Youjutsu, có thể chạy trên mặt nước, dùng các vật phẩm ma pháp gọi là furoshiki để bay trên trời, thậm chí biến thành ếch khổng lồ đủ sức nuốt chửng một con người khi bị bao vây. So với họ, ta thì thật sự, thật sự là…”

*Ghi chú: 妖術 (Youjutsu) thường được hiểu là “yêu thuật/pháp thuật tà đạo”. 風呂敷 (furoshiki) là một loại khăn gói truyền thống của Nhật.

“Cũng giống như Bushi, chưa từng có ai đạt được chức nghiệp ‘Ninja’” Gizania nói. “Người duy nhất được cho là gần đạt tới chức nghiệp đó nhất chính là Myuze-dono… nhưng nếu không khám phá được bí ẩn của Youjutsu và khả năng biến thân thành ếch khổng lồ thì e là bất khả thi.”

Có lẽ bản thân Hillwillow ngay từ đầu cũng chẳng hề có ý định truyền đạt sự thật về bushi hay ninja. Có khả năng ông ta chỉ đơn thuần yêu thích kịch lịch sử và những tác phẩm giải trí về các anh hùng hành động mang dáng dấp samurai hay ninja.

Việc ông ta để lại những ghi chép đó, có lẽ là mong muốn được thấy chúng được đưa vào các vở diễn phục vụ đại chúng sau khi Lambda trở nên thái bình hơn.

Những thứ như vậy được lưu truyền đến đời sau dưới danh nghĩa “tư liệu từ thế giới khác”… có lẽ đó cũng là một phần của dòng chảy lịch sử.

“… Ở đất nước của ta, có một chủng tộc tên là Hắc Goblin. Cùng với Zombie Titan là thầy của họ, bọn họ đã đạt được danh hiệu chủng tộc có mang chữ ‘Ninja’” Vandalieu kể lại để đáp lại thông tin về bushi và ninja mà họ vừa chia sẻ.

“Có thật không vậy, Thánh tử-dono?! Họ có thật sự biến thành ếch khổng lồ không?!” Myuze bật thốt. “Bushi thì sao, còn Bushi thì sao?!” Gizania cũng reo lên.

Cả hai đều hết sức phấn khích.

Ngay khi cuộc trò chuyện đang rôm rả, Vandalieu chợt nghe thấy âm thanh như mũi khoan đá đang cắt vào vách đá, kèm theo tiếng la hét từ phía bên ngoài cổng.

“GIZANIA-CHAAAAAN!”

“Công chúa! Xin người hãy nhỏ tiếng hơn chút!”

“Công chúa phát điên rồi! Mau ngăn nàng lại! Phải ngăn lại ngay!”

Gizania và Myuze, dù phản ứng chậm hơn Vandalieu một nhịp, cũng lập tức quay về phía cánh cổng với vẻ ngạc nhiên. Và đúng lúc đó—

Một bóng người phóng ra khỏi cổng.

“Gizania-chan! Ta mừng quá đi mất!”

Là một công chúa trạc hai mươi tuổi với vẻ ngoài dịu dàng, khoác trên mình chiếc váy trắng có thêu hoa tinh tế. Mái tóc hồng ánh vàng uốn lọn như mũi khoan, đôi mắt long lanh ngấn lệ. Dùng đôi chân trắng muốt như váy, nàng đạp mạnh lên cánh cổng rồi lao thẳng tới Gizania.

“Công chúa Kurnelia?!” Gizania kêu lên sửng sốt.

“Myuze, đưa Van chạy mau!” Basdia lập tức ra lệnh.

“Rõ!” Myuze lập tức ôm lấy Vandalieu từ tay Gizania rồi rút lui.

Và ngay sau đó, người phụ nữ có vẻ là công chúa Kurnelia rơi xuống người Gizania.

Gizania đỡ lấy nàng, nhưng miệng thì bật ra tiếng rên rỉ. Cũng phải thôi – Kurnelia là một công chúa Arachne, với nửa thân dưới là nhện. Dù kích thước nhỏ hơn Gizania, nhưng trọng lượng cũng dễ dàng vượt quá trăm ký. Một cơ thể nặng như thế lao tới với tốc độ cao chẳng khác gì một đô vật nhào tới giáng đòn, thậm chí còn mạnh hơn.

“Ôi ta mừng quá điiii! Ta tưởng là sẽ chẳng bao giờ gặp lại nữa! Làm sao mà em gái lại chết trước onee-chan được chứ!”

“K-không, nhưng lúc đó vết thương của thần khá nhẹ, nên việc thần làm mồi nhử là…”

“Ta thật sự rất vui! Ta đã hối hận không biết bao lần vì không lôi em về bằng mọi giá!”

Đúng là một cuộc hội ngộ cảm động. Nếu là người thường bị cuốn vào thì có lẽ đã gãy mấy cái xương.

“… Onee-chan?” Vandalieu lặp lại.

“Ồ, ngài chưa biết à? Gizania-dono là em gái của Công chúa Kurnelia đấy,” Myuze giải thích.

“Chúng tôi chưa từng nghe về việc đó. Dù khi nói chuyện với cô ấy, tôi cũng có cảm giác là Gizania rất yêu quý công chúa như chị gái mình” Basdia nói, đứng gần chỗ Myuze vừa nhảy tránh.

“Phải rồi, Gizania-dono không nhắc đến cũng không lạ” Myuze gật đầu. “Tộc lớn thường sống lâu và mạnh mẽ hơn tộc trung, nhưng vì vậy mà vai trò của họ là bảo vệ dân chúng, chứ không can dự vào chính trị hay tôn giáo.”

Có vẻ như với người dân Zanalpadna, việc Gizania là em gái công chúa là chuyện ai cũng biết, nên cô không nghĩ phải nhắc đến. Và cô không phải là công chúa kỵ sĩ, mà là công chúa samurai.

--------------------------------------------------

Tên: Gizania

Tuổi: 35 tuổi

Danh hiệu: Không

Hạng: 5

Chủng tộc: Arachne Samurai (Dạng lớn)

Cấp độ: 87

Chức nghiệp: Samurai

Cấp độ chức nghiệp: 90

Lịch sử chức nghiệp: Chiến binh tập sự, Chiến binh, Kiếm sĩ

Kỹ năng bị động:

o Dạ nhãn

o Siêu sức mạnh: Cấp 3

o Tăng cường nhanh nhẹn: Cấp 5

o Cường hóa tấn công khi trang bị katana: Nhỏ

o Cường hóa cơ thể (Vỏ, Mắt, Lông tơ): Cấp 3

o Cường hóa thuộc tính giá trị (Lòng trung thành): Cấp 3

Kỹ năng chủ động:

o Kỹ thuật dùng Katana: Cấp 5

o Giáp thuật: Cấp 5

o Võ thuật: Cấp 3

o Di chuyển nhanh: Cấp 3

o Vượt ngưỡng giới hạn: Cấp 5

--------------------------------------------------

Giải thích thêm về quái vật: Arachne

Thông tin sau đây là quan điểm chính thức được công nhận bởi Hội Mạo Hiểm Giả và Hội Pháp Sư tại những vùng bên ngoài Dãy Núi Biên Giới.

Arachne là một trong các chủng tộc của Vida, sở hữu phần thân dưới là nhện và phần thân trên mang hình dáng của nữ giới loài người.

Giống như loài nhện, họ có nọc độc nguy hiểm và có thể giăng bẫy bằng tơ nhả ra từ miệng. Từng có lời đồn cho rằng họ là một chủng tộc hung tợn đến mức ăn cả đồng loại.

Người ta cũng tin rằng nếu bắt được con người, họ sẽ ăn thịt phụ nữ và dùng đàn ông để sinh sản, sau đó hoặc ăn thịt, hoặc giữ lại để làm thức ăn cho lũ nhện con sau khi trứng nở.

Những thông tin sai lệch trên từng là quan điểm phổ biến trong quá khứ, nhưng hiện tại, Hội Mạo Hiểm Giả và Hội Pháp Sư đã thu thập được dữ liệu chính xác hơn. Dẫu vậy, tại một số thôn làng hẻo lánh hoặc khu định cư biệt lập, quan điểm lạc hậu này vẫn còn tồn tại.

Trên thực tế, Arachne được chia thành bốn dạng chính: dạng trung bình, dạng nhỏ, dạng lớn và dạng thủy sinh. Tất cả đều là giới nữ với phần thân dưới hình dạng nhện, vì thế đây là một chủng tộc đơn giới. Tuy nhiên, mỗi dạng lại có đặc điểm sinh lý khác biệt rõ rệt.

Arachne dạng trung bình là dạng phổ biến nhất. Họ cực kỳ mạnh mẽ và nhanh nhẹn, có thể dựng nơi trú ẩn và bẫy từ tơ do phần thân dưới tiết ra. Họ có tuyến nọc độc, nhưng lượng độc tiêm qua nanh rất yếu, gần như không ảnh hưởng đến sinh vật có kích cỡ tương đương con người.

Tỷ lệ người dùng ma thuật trong dạng này cao hơn loài người nhưng thấp hơn Elf. Tuổi thọ trung bình khoảng ba trăm năm. Cấp độ cơ bản (Base Rank) là 3.

Arachne dạng nhỏ là dạng phổ biến thứ hai. Dù đã trưởng thành, họ vẫn mang hình hài bé nhỏ với phần thân trên trẻ trung và phần thân dưới nhỏ gọn, khiến nhiều người nhầm lẫn họ là trẻ em của dạng trung bình hoặc lớn.

Họ linh hoạt trong cách sử dụng tơ hơn so với dạng trung bình, thân thể nhẹ nhàng, đồng thời sở hữu loại nọc độc mạnh nhất trong các Arachne — nếu tiêm trúng một người không có kỹ năng 【 Kháng Độc (Poison Resistance) 】, nạn nhân sẽ lập tức mất khả năng cử động.

Họ cũng có nhiều cá thể học được phép thuật, dù chỉ dừng ở mức cơ bản. Tính cách thường tươi sáng, hoạt bát. Tuổi thọ trung bình khoảng hai trăm năm. Cấp độ cơ bản là 2.

Arachne dạng lớn rất hiếm, đến mức nhiều khu định cư nhỏ hoàn toàn không có sự hiện diện của họ. Họ sở hữu sức bền, thể lực và năng lượng vượt trội. Tuy vẫn có thể nhả tơ, nhưng lại không thành thạo trong việc điều khiển, và tuyến nọc độc của họ đã thoái hóa đến mức gần như vô dụng.

Phép thuật cũng không phải sở trường của dạng này. Dù vẻ ngoài cực kỳ ấn tượng, nhưng hầu hết các cá thể thuộc dạng lớn lại có tính cách điềm đạm, vô lo vô nghĩ — tuy nhiên, vẫn tồn tại một vài cá biệt.

Tuổi thọ của họ khoảng năm trăm năm. Cấp độ cơ bản là 4.

Arachne thủy sinh là dạng hiếm nhất, thậm chí có ý kiến cho rằng họ đã tuyệt chủng. Họ là những cá thể duy nhất có thể dựng tổ dưới nước hoặc trên mặt nước. Dù không có mang, họ vẫn hô hấp bằng phổi, và dùng tơ tạo ra các túi khí dưới nước để đảm bảo dưỡng khí.

Do ít có ghi nhận thực tế, thông tin về dạng này còn mơ hồ. Người ta suy đoán rằng tuổi thọ và cấp độ cơ bản của họ tương đương với dạng trung bình. Một giả thuyết khác cho rằng đây thực chất chỉ là Arachne dạng trung bình sinh sống trong môi trường thủy sinh, và Arachne thủy sinh không thực sự là một chủng riêng biệt.

Điểm chung của tất cả Arachne là lớp vỏ ở phần thân dưới cứng như giáp, có thể sử dụng kỹ năng 【 Giáp thuật (Armor Technique) 】. Các chân có vuốt sắc ở đầu mút, cho phép họ chạy băng băng trên vách đá hay cây cối với tốc độ như đang lướt trên đất bằng. Khi dùng các chân này làm vũ khí, họ sẽ nhận được hiệu quả từ kỹ năng 【 Võ thuật 】.

Nếu đầu chân bị chém đứt, chỉ cần qua một lần lột xác là sẽ hồi phục như cũ.

Điểm yếu duy nhất là phần bụng nhện ở thân dưới, nơi không có lớp vỏ cứng. Tuy nhiên, Arachne dạng lớn có lớp lông cứng hơn vẻ ngoài, giúp bảo vệ khu vực này. Dù có bị thương, phần bụng nhện không phải điểm chí tử — tuy mất máu nhiều, nhưng không nguy hiểm đến tính mạng.

Arachne lột xác mỗi năm một lần. Dạng nhỏ được coi là trưởng thành sau mười lần lột xác, dạng trung bình sau mười lăm lần, và dạng lớn sau hai mươi lần.

Vì trong thời gian lột xác và ngay sau đó, họ hoàn toàn không có khả năng phòng vệ, nên Arachne tuyệt đối không cho ai ở gần, trừ khi đó là người họ vô cùng tin tưởng.

Thông thường, họ không ăn thịt người hay đồng loại. Họ có tinh thần đoàn kết mạnh mẽ và bản tính hòa đồng. Nếu chấp nhận một người làm bạn đời, họ sẽ đối xử với người đó như bạn đồng hành và trân trọng hết mực.

Arachne sinh sản bằng cách đẻ trứng. Nếu đang có bạn đời và không trong giai đoạn nuôi con, họ sẽ đẻ một lứa trứng lớn khoảng mười năm một lần.

Khi thăng cấp (Rank Up), họ có thể nhận các danh xưng như Arachne Soldier, Arachne Scout hay Arachne Knight. Tuy nhiên, có truyền thuyết kể rằng, nếu thỏa mãn điều kiện đặc biệt, một số cá thể có thể tiến hóa thành một chủng tộc hoàn toàn khác.

Bình luận (2)
Báo cáo bình luận không phù hợp ở đây

2 Bình luận

Tưởng công chúa đến chỗ knochen?
Mà Isla đang ở chỗ knochen thì liên lạc kiểu gì v
Xem thêm