Tập 05: Cuộc thám hiểm của quái vật
Phụ lục 5: Tộc Scylla và các ác thần
4 Bình luận - Độ dài: 4,247 từ - Cập nhật:
Scylla
Một chủng tộc được sinh ra khi Vida, nữ thần của tình yêu và sự sống, kết hợp với một con quái vật—dẫu thực tế, đó là Merrebeveil, Ác thần của Slime và xúc tu.
Họ là tộc nhất tính, chỉ gồm toàn phụ nữ, mang hình dáng nửa trên là những mỹ nhân kiều diễm, còn nửa dưới là tám chiếc xúc tu giống như bạch tuộc.
Phần thân trên của họ thường trông giống loài người với mái tóc và đôi mắt màu xanh lục, nhưng tùy theo huyết thống từ cha, đôi khi họ mang nét đặc trưng của Elf, Dwarf, Dark Elf hoặc Thú nhân. Nếu trong huyết quản có dòng máu Titan, phần thân dưới lẫn thân trên của họ sẽ lớn hơn hẳn bình thường.
Dù người cha là ai, một điều không bao giờ thay đổi: họ luôn luôn xinh đẹp.
Thông thường, phần thân dưới của họ có tám xúc tu như bạch tuộc, nhưng cũng có trường hợp hiếm gặp với chín hoặc nhiều xúc tu hơn. Truyền thuyết kể rằng Scylla thời xưa còn có đầu của sói, rắn hay rồng mọc ở đầu xúc tu, song hiện tại chưa từng có ai chứng kiến cảnh đó.
Có giả thuyết cho rằng Bellwood và các Dũng sĩ năm xưa đã tiêu diệt toàn bộ những cá thể Scylla đột biến đó, hoặc những câu chuyện này chỉ là bịa đặt do những kẻ muốn bôi nhọ Scylla dựng nên.
Có lẽ vì một nửa huyết thống đến từ quái vật, nhiều Scylla sở hữu năng lực tương thích với nguyên tố nước và đất, và không ít người còn có tương thích với nguyên tố sinh mệnh.
Ngay từ khi sinh ra, họ đã sở hữu các kỹ năng như 【 Thích Ứng Nước (Water Adaptation) 】, 【 Hắc nhãn (Night Vision) 】và 【 Siêu Sức Mạnh (Superhuman Strength) 】. Vì vậy, trái với vẻ đẹp quyến rũ bên ngoài, họ hoàn toàn có thể trở thành những chiến binh hoặc pháp sư hùng mạnh. Nhiều Scylla còn học được kỹ năng 【 Tiết Mực (Ink Secretion) 】và 【 Cường Hóa Bộ Phận (Phần thân dưới) (Enhanced Body Part - Lower Body Half) 】 khi chiến đấu bằng mực và xúc tu.
Gốc của mỗi chiếc xúc tu đều chứa một “tiểu não”, cho phép chúng hoạt động độc lập với phần thân trên. Nhờ vậy, tỉ lệ Scylla sở hữu kỹ năng 【 Tư Duy Song Song (Parallel Thought Processing) 】 cao hơn hẳn các chủng tộc khác.
Ngoài ra, nếu xúc tu bị cắt đứt, chỉ cần được nuôi dưỡng đầy đủ, chúng sẽ mọc lại.
Tuổi thọ trung bình của Scylla lên đến bốn trăm năm. Họ trưởng thành với tốc độ tương tự con người cho đến khi bước vào độ tuổi thiếu niên, sau đó mỗi cá nhân sẽ có tốc độ lão hóa khác nhau. Nhưng khi đạt đến một độ tuổi nhất định, tiến trình lão hóa sẽ ngừng hẳn. Lúc đó, họ được xem là đã trưởng thành.
Scylla thường mang tính cách tươi sáng, vui vẻ, nhưng nếu bị chọc giận thì sẽ rất hay thù dai. Dù là tộc chỉ có nữ, họ không có tư tưởng nữ quyền cực đoan. Nhưng vì phần lớn tin rằng đàn ông là những người cần được bảo vệ, nên có thể người ngoài sẽ thấy họ như vậy. Bản thân Scylla thì chỉ cho đó là sự phân chia vai trò mà thôi.
Hiện không có Scylla nào đăng ký làm mạo hiểm giả ở lục địa Bahn Gaia, nhưng khi có thì họ rất linh hoạt—vừa có thể đảm nhiệm vị trí tiên phong, vừa có thể hỗ trợ từ hậu tuyến. Tuy nhiên, họ không thích hợp làm trinh sát. Nguyên nhân là do thân dưới cồng kềnh khiến việc di chuyển trong thành phố hay hang động hẹp trở nên khó khăn, dù họ hoạt động rất hiệu quả ở nơi thoáng đãng hoặc mê cung mô phỏng không gian mở.
Ngược lại, trong môi trường nước, họ là những đồng minh mạnh mẽ bậc nhất—chỉ sau người cá Merfolk.
Phần lớn Scylla bình thường làm nghề săn bắt, đánh cá hoặc nông nghiệp. Nhiều người còn có năng khiếu ca hát và vũ đạo, một phần trong các nghi lễ tôn giáo của họ.
Một số thợ thủ công Scylla còn chế tạo vải nhuộm từ loại mực đặc biệt—kết hợp giữa mực do họ tiết ra và các nguyên liệu như thảo mộc. Tuy nhiên, người trực tiếp thực hiện lại thường là chồng hoặc con trai họ.
Scylla sinh ra với tư chất của quái vật hạng Rank 3, mạnh đến mức các mạo hiểm giả mới vào nghề không thể đối đầu trực diện trên mặt đất. Ngay cả những thợ săn hay ngư dân bình thường cũng khó lòng bị bắt giữ bởi vài ba binh lính tầm trung.
Họ thường sống thành làng tại các khu đầm lầy, ven hồ hay bờ biển. Có nơi chỉ là một gia đình nhỏ, nhưng cũng có những ngôi làng lớn với khoảng một ngàn Scylla sinh sống, nằm trong công quốc Sauron (hiện bị Đế quốc Amid chiếm đóng) thuộc lục địa Bahn Gaia.
Điểm chung ở các làng Scylla là họ không tách biệt hoàn toàn với thế giới bên ngoài, mà thường dựng làng gần khu dân cư của các chủng tộc khác. Lý do đơn giản: là tộc nhất tính, họ cần đàn ông từ chủng tộc khác để duy trì nòi giống.
Tuy vậy, họ từ lâu đã là đối tượng bị các quốc gia hoặc tổ chức chịu ảnh hưởng sâu nặng từ Giáo hội Alda coi là quái vật cần tiêu diệt. Vì lẽ đó, Scylla chưa từng xây dựng nên một quốc gia riêng như loài người.
Từng có thời họ bị sợ hãi vì lời đồn “ham muốn đàn ông loài người vô độ”, nhưng điều này hoàn toàn sai sự thật. Họ ăn hải sản, thịt, rau củ, trái cây, thậm chí cả ngũ cốc. Đặc biệt, Scylla sinh sống tại lãnh địa của họ ở công quốc Sauron đã trồng lúa suốt hàng vạn năm—có truyền thuyết kể rằng kỹ thuật canh tác của họ còn vượt qua cả loài người.
Họ chủ yếu thờ phụng Vida, các phụ thần của bà, và cả Merrebeveil—vị ác thần được xem là thánh mẫu của Scylla.
Không có chủng tộc nào xem họ là kẻ thù, nhưng Scylla rất cảnh giác với những tín đồ của Alda, vị thần của luật lệ và vận mệnh, bởi lịch sử bị bức hại kéo dài hàng thế kỷ.
Về tình yêu, quan điểm của họ khá điển hình trong số các chủng tộc của Vida. Họ sẽ chọn một người chồng, sống cùng nhau cho đến khi đứa con được khoảng mười tuổi. Sau đó, khi đứa trẻ đã phần nào độc lập, đôi bên có thể đường ai nấy đi mà không ai trách ai.
Dĩ nhiên, cũng có nhiều cặp đôi vẫn tiếp tục sống bên nhau dù đã quá mười năm. Một chồng nhiều vợ hoặc một vợ nhiều chồng cũng là chuyện thường tình trong xã hội Scylla.
Hôn lễ của họ khá đặc biệt: Scylla sẽ nhảy múa và ca hát với phần thân trên nhô lên khỏi mặt nước để bày tỏ tình cảm. Khi người đàn ông chấp nhận, anh ta sẽ tiến đến gần và lên tiếng hoặc ôm lấy cô gái, như vậy nghi lễ cầu hôn sẽ hoàn tất.
Chính vì nghi thức này, không ít hiểu lầm đã xảy ra: nhiều người đàn ông lầm tưởng các Scylla đang ca hát là phụ nữ bị đuối nước, liền lao xuống cứu. Điều này càng làm dấy lên lời đồn rằng Scylla giả làm người chết đuối để kéo đàn ông chết chìm cùng họ.
Ngày nay, nghi lễ này đã dần bị bỏ quên, chỉ còn được thực hiện trong các nghi thức tôn giáo do các miko (vu nữ) chủ trì, hoặc bởi những cặp đôi chuộng phong cách truyền thống.
Scylla có khả năng sinh sản cao, mỗi lần sinh thường đẻ ba trứng. Trứng sẽ nở sau khoảng một năm, chào đời những đứa trẻ mới.
-----------------------------------------------
Thế giới nơi Ma Vương Guduranis và quân đoàn của hắn xuất thân
Ma Vương Guduranis cùng các ác thần dưới trướng từng xuất hiện tại Lambda vào thời đại của các vị thần. Thế nhưng, về thế giới mà bọn chúng vốn thuộc về—gần như không ai biết được gì.
Nguyên nhân đơn giản: quân đoàn của Ma Vương được tạo ra bởi chính hắn và các ác thần, đều là quái vật do chúng sinh ra. Thành ra, trừ phi có thể phỏng vấn trực tiếp một ác thần nào đó, thì gần như không có cách nào để thu thập thông tin đáng tin cậy.
Có lẽ Ma Vương và đám ác thần cũng chưa từng ghi chép lại bất cứ điều gì trên sách vở hay bia đá. Hoặc có thể, chúng vốn chẳng hề có khái niệm lưu trữ tri thức theo kiểu đó. Bằng chứng là hiện giờ, chẳng có tài liệu gì đáng kể được lưu truyền.
Tất cả những gì người đời có thể dựa vào chỉ là những ghi chép còn sót lại—chẳng hạn như các vật phẩm do Ma Vương và đám tay chân để lại sau khi đến thế giới này, hay những gì mà các Dũng sĩ từng chứng kiến và nghe được trong lúc chiến đấu.
Người ta vẫn truyền miệng nhau rằng từng tồn tại một bản ghi chép rất chi tiết về những lời đối thoại giữa các ác thần và thuộc hạ thân cận của chúng—một bản tài liệu được chính tai các Dũng sĩ nghe thấy và ghi lại: Zakkart, Dũng sĩ của Vida, nữ thần của sự sống và tình yêu; Solder, Dũng sĩ của Peria, nữ thần của nước và tri thức; Ark, Dũng sĩ của Ricklent, thần linh của thời gian và ma thuật; và Hillwillow, Dũng sĩ của Botin, mẫu thần của đại địa và nghề thủ công. Tuy nhiên, đến nay vẫn chưa rõ bản ghi đó có thực sự tồn tại hay không.
Những gì được ghi lại dưới đây là phần tổng hợp từ các thông tin đã được công bố cho đến hiện tại, và đều đến từ những nguồn có độ tin cậy rất cao.
-----------------------------------------------
Tên của thế giới nơi Ma Vương sống
Không rõ. Ma Vương Guduranis và các ác thần từng nhắc đến nó bằng những cụm từ như “thế giới mà bọn ta vốn thuộc về.” Từ đó, các học giả suy đoán rằng thế giới đó chưa từng có tên gọi chính thức.
Đồng thời, cũng có thể khẳng định rằng việc Guduranis cùng tay chân đến được thế giới Lambda là lần đầu tiên—và có lẽ cũng là duy nhất—chúng từng vượt qua giới hạn giữa các thế giới.
Nếu bọn chúng từng lang thang qua nhiều thế giới khác nhau, ắt hẳn đã đặt cho thế giới của mình một cái tên để phân biệt. Nhưng nếu chẳng hề biết đến sự tồn tại của thế giới nào khác, thì cứ gọi đơn giản là “thế giới” cũng là chuyện thường.
-----------------------------------------------
Về thế giới của Ma Vương
Chưa từng có một chút thông tin nào được biết về địa lý, khí hậu, sinh vật, lịch sử hay quốc gia của thế giới ấy.
Chính vì lẽ đó, người ta cho rằng Guduranis và các ác thần không hề có văn hóa truyền thừa tri thức, dù bằng chữ viết hay truyền miệng.
Tuy nhiên, không thể nói rằng mọi thứ về thế giới ấy đều bị che phủ trong màn sương bí ẩn. Nhờ vào hình dạng của Ma Vương, các ác thần, cùng những con quái vật do bọn chúng tạo ra, người ta vẫn có thể phần nào phỏng đoán được.
Thế giới đó có lẽ là một nơi khắc nghiệt vượt xa bất kỳ nơi nào ở Lambda. Dù rất nhiều quái vật sống một mình, nhưng các sinh vật cùng chủng loài có thể đã kết thành đàn. Một thế giới nơi mọi sinh vật không ngừng chém giết để giành quyền sinh tồn—một nơi mà chiến đấu là bản năng, là định mệnh.
-----------------------------------------------
Các vị thần trong thế giới của Ma Vương
Không ai biết rõ ai là kẻ đã tạo ra thế giới nơi Ma Vương Guduranis từng trị vì. Nhưng xét theo trạng thái tồn tại của các vị thần tại đó, có thể thấy thế giới ấy hoàn toàn khác biệt so với thế giới hiện tại.
Ở thế giới đó, thần thánh là “những tồn tại vượt xa sinh vật thông thường về sức mạnh”. Chỉ cần đạt đến một mức độ sức mạnh nhất định, một sinh vật sẽ được gọi là “thần”, và mọi kẻ đạt tới cảnh giới ấy đều được coi là thần.
Họ không trở thành thần vì được thờ phụng. Ngược lại, chính vì là thần nên họ mới có thể tạo ra tín đồ để thờ phụng mình.
Kẻ mạnh nhất trong số các vị thần được gọi là Ma Vương, và người ta cho rằng Guduranis đã đánh bại Ma Vương đời trước để chiếm lấy danh hiệu này.
-----------------------------------------------
Sinh vật trong thế giới của Ma Vương
Tính chất của các sinh vật ở thế giới đó phần nào có thể suy đoán từ những con quái vật do Ma Vương và các ác thần tạo ra. Theo ghi chép, lũ quái vật mà quân đoàn Ma Vương triệu hồi vào những năm đầu khi xâm nhập Lambda rất khác biệt so với sinh vật bản địa.
Chính vì quá dị biệt, chúng không thể thích nghi với thế giới mới này và đã tuyệt chủng chỉ trong thời gian ngắn.
Theo những ghi chép ấy, chúng không có hình dạng thống nhất – có thể là rồng, rắn hoặc cá sấu phủ đầy vảy; có thể là những sinh vật đầy xúc tu hoặc toàn thân chính là xúc tu; cũng có thể là thú vật có nhiều đầu, có năm chi trở lên… hay chỉ có một chi duy nhất.
Người ta nói rằng phần lớn bọn chúng sở hữu vẻ ngoài quái dị đến mức gây ra cảm giác kinh tởm và sợ hãi ngay khi nhìn thấy.
Dẫu vậy, tất cả những thông tin này chỉ là tập hợp các lời đồn và suy đoán. Tuy nhiên, khi nhìn vào các bức tượng thờ lũ ác thần hiện vẫn đang lẩn khuất trong bóng tối, cùng với hình dạng của những con quái vật còn sót lại từ thời kỳ đầu, người ta cho rằng các ghi chép ấy có phần đáng tin.
Ngược lại, lối sống, văn hóa và giá trị quan của các sinh vật nơi thế giới Ma Vương lại có thể suy đoán khá rõ ràng, nhờ vào hành vi của lũ quái vật.
Bởi lẽ, kể cả sau khi Ma Vương bị đánh bại và xuất hiện các giống loài quái vật mới, lối sống và văn hóa của chúng vẫn không thay đổi đáng kể.
Có lẽ ở thế giới đó, sinh vật tự mình học hỏi, tự rèn luyện kỹ năng, không có khái niệm truyền đạt kiến thức hay tạo ra công cụ cho thế hệ sau.
Bằng chứng là dù một số giống loài có tổ chức thành nhóm hay làng mạc sơ khai, thì việc truyền dạy kiến thức và kỹ năng từ cha mẹ sang con cái vẫn rất hạn chế.
Dễ hiểu nhất nếu lấy Goblin và Orc làm ví dụ. Chúng sinh sản rất nhiều để duy trì nòi giống, còn những cá thể mạnh hơn sẽ tự quan sát và học lỏm kỹ năng từ người lớn. Tuy có vài trường hợp hiếm gặp tại Guild Mạo Hiểm giả – nơi những cá thể có tố chất pháp sư được nhận làm đồ đệ – nhưng phần lớn là do tự học.
Về công cụ, trình độ của chúng lại càng thấp kém. Phần lớn chỉ cầm cành cây lớn làm gậy gộc, và chủ yếu dựa vào việc cướp vũ khí từ kẻ thù. Một số ít cá thể biết chế tạo giáo, cung tên, nhưng thường chỉ dùng cho bản thân hoặc dâng lên kẻ cấp trên – không hề chia sẻ hay truyền lại kỹ thuật cho người khác trong nhóm.
Những giống loài được xem là thông minh hơn như Lizardman hay Noble Orc thì có dạy dỗ con cái và chia sẻ vũ khí trong cộng đồng, nhưng chúng vẫn là thiểu số trong thế giới quái vật.
Từ những điều đó, người ta cho rằng sinh vật nơi thế giới Ma Vương không hề có văn hóa – hay nói đúng hơn là khái niệm – sử dụng công cụ. Chúng dựa vào thân thể và ma thuật mà mình nắm giữ để đối phó với mọi tình huống.
Ngoài ra, có vẻ như chúng không biết canh tác mà sống theo kiểu săn bắt hái lượm, tương tự dã thú.
Tuy nhiên, cũng có lời đồn rằng chúng từng nuôi các chủng tộc yếu hơn như gia súc, để sử dụng làm lao động hoặc làm thực phẩm khi cần thiết.
-----------------------------------------------
Vandalieu đóng quyển sách cũ lại rồi quay sang hỏi Fidirg – Long Thần Ngũ Tội.
“Trong sách viết như vậy, nhưng thật sự có bao nhiêu phần là đúng?”
“Phần lớn đều là sự thật đấy.”
“Nhưng mà… được nhắc tới suốt mấy chục ngàn năm trời…”
“Con người đúng là tò mò thật.”
Fidirg, kẻ từng ngủ yên hàng vạn năm sau cuộc chiến giữa Vida và Alda và chỉ mới tỉnh lại sau khi bị dãy núi biên giới ngăn cách khỏi thế giới loài người, chỉ biết thở dài bất lực trước sự tò mò bất tận của nhân loại.
Dù vậy, được quan tâm như thế cũng không phải chuyện xấu. Thứ cảm xúc vừa kính sợ vừa tôn thờ đó, xét cho cùng cũng chẳng khác gì tín ngưỡng… Tuy nhiên, dù quân đoàn Ma Vương từng gieo rắc bao nỗi kinh hoàng, thì cũng chẳng có mấy ghi chép lưu lại tên của Fidirg.
“Ta từng là thành viên của một chủng tộc gọi là ■■■■■.”
“Ở thế giới này chắc gọi là… Điểm Kinh Nghiệm? Ta ăn nhiều điểm như thế rồi thành thần thôi.”
“À, ngươi không hiểu được cũng phải. Trong thế giới này không có từ tương ứng, mong thông cảm.”
Fidirg nhớ lại những tháng ngày xa xăm với ánh mắt như trôi về quá khứ.
“Và đó là lý do ta tự xưng là ‘Long Thần Ngũ Tội’.”
“Tiện thể nói luôn, có vài ác thần mang tên na ná như vậy, bởi vì chúng cũng thuộc tộc tương tự.”
“Giống như kiểu báo hoa mai với hổ vậy đó. Trông có thể khác nhau hoàn toàn, nhưng ở thế giới đó thì mấy thứ khác biệt kiểu vậy chẳng đáng là gì.”
Ở thế giới ấy, thần thánh chẳng cần phải lập giáo phái hay truyền bá tín ngưỡng. Chủng tộc mà họ sinh ra sẽ tự nhiên trở thành tín đồ của họ. Nếu không có, thì họ tự tạo ra. Nếu có vị thần khác trùng tên, thì chỉ cần giết nhau là xong.
Đó là lý do – dù Vandalieu không hề hay biết – vẫn tồn tại những vị thần với danh xưng tương tự, như Ác Thần Cổ Thư và Ác Thần Văn Tự Ngoại Lai*.
*Chú thích: Trong nguyên tác Nhật, tên hai thần này chia sẻ cùng một ký tự Hán nên gần giống nhau.
“Lúc tới thế giới này, đúng là một cú sốc thật sự.”
“Phần lớn sinh vật ở đây chỉ có một cái đầu, gần như chẳng có xúc tu gì cả. À, nhưng mà có khá nhiều loài có vảy, nên cũng tạm ổn.”
“Những vị thần xúc tu như Merrebeveil-san thì ngạc nhiên lắm.”
Vẻ mặt trên các cái đầu của Fidirg đều thể hiện rõ nỗi bất ngờ khi lần đầu đặt chân tới Lambda. Theo cảm nhận của hắn, chính Lambda mới là thế giới kỳ quái.
“Nếu cảm thấy như thế, sao ngươi lại chấp nhận đề nghị của Zakkart?” Vandalieu hỏi. “Ta biết ngươi không thích Ma Vương, nhưng với góc nhìn của ngươi, thì lời đề nghị đó phải trông cực kỳ đáng nghi mới đúng.”
Dù nói thế nào, Fidirg và các ác thần khác rốt cuộc vẫn đồng ý với đề xuất của Zakkart và đứng về phía Lambda. Khi nghe chuyện này, Vandalieu không khỏi thắc mắc: điều gì khiến họ chịu đối thoại ngay từ đầu?
Liệu Zakkart có sở hữu kỹ năng thương lượng đặc biệt nào chăng?
“À, lúc đó thời cơ khá tốt. Bellwood và bọn họ đã xuất hiện, dù quân đoàn Ma Vương vẫn đang áp đảo, nhưng bắt đầu có những trận thua lẻ tẻ…”
“Lũ quái vật chúng ta tạo ra cũng bắt đầu học cách cướp vũ khí của loài người và sử dụng…”
“Chính thời điểm đó, chúng ta bắt đầu nhìn thế giới này bằng một góc độ khác. Ta còn ra lệnh cho Lizardman dùng vũ khí của loài người làm mẫu để chế tạo vũ khí cho riêng mình.”
Và rồi, một trong những Dũng Sĩ xuất hiện không phải để chiến đấu mà để thương lượng – một sự kiện vô cùng hiếm hoi. Vì vậy, họ đã chịu lắng nghe, và thấy đề nghị ấy rất đáng cân nhắc.
Không rõ đó có phải là trùng hợp hay Zakkart thực sự chọn đúng thời điểm, nhưng nếu là trường hợp sau… thì quả thật hắn là một chiến lược gia đáng gờm.
“Nhân tiện, từ góc nhìn của ta, điều kỳ lạ là các ngươi không tạo ra công cụ. Tại sao ở thế giới Ma Vương, các ngươi không làm vậy?” Vandalieu hỏi.
Đối với Vandalieu – người từng được học về quá trình phát triển của văn minh trên Trái Đất – thì việc một chủng loài thông minh không chế tạo công cụ là điều khó hiểu. Nhưng phản hồi của Fidirg thì lại rất đơn giản.
“À, Solder và Ark cũng từng hỏi vậy.”
“Thế giới của ta cũng có gỗ và đá, nhưng…”
“Chúng yếu hơn cả da hay răng nanh của một sinh vật bình thường có chút sức mạnh, nên chẳng ai dùng làm gì cả. Vả lại, ta còn có ma thuật.”
Có vẻ như những kim loại đặc biệt như Mythril, Adamantite hay Orichalcum hoàn toàn không tồn tại ở thế giới của Ma Vương.
Hoặc nếu có tồn tại, thì việc phát hiện và sử dụng chúng đòi hỏi phải có công nghệ khai khoáng và tinh luyện quặng – một thứ mà không sinh vật nào kịp phát triển trong hoàn cảnh đó.
Sinh vật không cần đá để làm công cụ, thì sao lại cần học cách tinh luyện đồng hay sắt?
“Vì vậy, trong mắt bọn ta, việc sử dụng công cụ là hành vi chỉ dành cho loài yếu kém. Ai dùng công cụ tức là chỉ đáng làm thực phẩm cho sinh vật cao cấp hơn.”
“Cũng có vài chủng tộc yếu biết làm công cụ, nhưng Ma Vương không đưa họ sang thế giới này vì chúng không phải thần.”
“Đó là lý do chúng ta từng khinh thường con người ở đây – những kẻ chỉ biết dùng vũ khí để chiến đấu. Nhưng rồi chúng ta bị chia làm hai: kẻ bị Dũng Sĩ đánh bại và kẻ như ta, thay đổi cách suy nghĩ.”
Có vẻ như quân đoàn Ma Vương cũng học hỏi từ thực tế sau khi đặt chân đến Lambda, nhưng chỉ một số ít thay đổi được tư duy.
“Dù sao đi nữa, công nghệ của quái vật sẽ không bao giờ đuổi kịp con người.”
“Ngay cả trong số các thần, cũng chỉ có số ít dùng vũ khí hay giáp trụ.”
“Không thể xem thường con người được.”
“… Ta lại thấy quân đoàn Ma Vương thú vị hơn rồi đấy” Vandalieu nói.
Theo lời Fidirg, hầu hết các vị thần từng chỉ đạo lũ quái vật tạo ra công cụ đều là những người đã chấp nhận đề nghị của Zakkart và đổi phe như hắn.
Fidirg chính là kẻ đã tạo ra tộc Lizardman. Dù sau này chúng bị Luvesfol – Ác Long Thần Thịnh Nộ – cướp đi, nhưng giống Lizardman Fidirg tạo ra tại các vùng đầm lầy đã biết chế tạo và sử dụng vũ khí không hề thua kém binh sĩ loài người.
Còn Merrebeveil – một trong những tổ tiên của Scylla – thì khiến giống loài đó phát triển kỹ thuật nông nghiệp vượt trội.
Nếu Zakkart không thuyết phục được Fidirg và những người như hắn đổi phe… thế giới này có lẽ đã nằm gọn trong tay Ma Vương.


4 Bình luận
Móe,cuối cùng cũng xong