Xuyên suốt đêm dài, mọi người đều tiếp tục làm việc không chút mệt mỏi. Xác Sahagin đã được dọn đi, và đống chất nhầy phủ đầy con tàu đã được lau sạch. Sau cùng thì, Walm chuyển từ việc cung cấp nước cho các hành khách sang cung cấp nước cho cả tàu. Kết quả này đã được cậu phần nào đoán trước. Vì vốn dĩ, những người có thể sử dụng ma thuật trên con tàu này đều đã cạn sạch ma lực trong trận chiến cam go trước đó, cộng thêm việc nhiều lỗ hổng xuất hiện khiến cho chiếc tàu có nguy cơ bị ngập nước. Và quan trọng hơn hết, một khi đã được trả công rồi thì Walm không còn lý do nào để từ chối cả.
Việc sửa chữa tàu và ướp muối con Kraken vẫn chưa được hoàn thành mặc cho mọi người đã quần quật làm việc suốt cả một ngày. Kích thước khổng lồ của cái xác yêu cầu phải có một lượng muối khổng lồ, thế nên các Pháp sư biển phải liên tục vắt kiệt ma lực của bản thân mình để tách muối ra khỏi nước biển. Trục căng buồm, thứ có trọng lượng lớn và liên tục bị đung đưa bởi gió, kèm thêm việc nó được đặt ở rất cao trên cột buồm, khiến cho việc sửa chữa cho dù trong tình huống khẩn cấp cũng không thể hoàn thành trong một ngày.
Mặc cho vẻ ngoài tạm bợ, thân và boong tàu đã được khôi phục lại những chức năng vốn có của mình. Mọi người đều kiệt sức và rất buồn ngủ, nhưng chẳng có một tiếng ngáp hay phàn nàn nào vang lên. Ngược lại, mọi công việc thậm chí còn đang được tạm dừng, chỉ có một số lượng nhân công vừa đủ để canh gác ở những nơi cần thiết, còn lại tất cả đều đã tập trung hết lên boong trên.
“Họ là những người thuỷ thủ dũng cảm, những người mà đã hy sinh cả mạng sống của mình để bảo vệ đồng đội, những hành khách, và chính con tàu này. Sự hy sinh anh dũng của họ sẽ không bao giờ bị lãng quên, mà chúng sẽ được khắc ghi sâu vào trong ký ức của mỗi chúng ta mãi mãi”, thuyền trưởng Berim Beggar, chỉ huy của con tàu buôn lớn này, đứng cạnh những thuỷ thủ đoàn không tạo ra dù chỉ một tiếng động, nói. Cuộc tập kích của con Kraken và đám Sahagin đã khiến 14 người chết và hơn 20 người bị thương. Với độ nguy hiểm của đám ma vật này thì thương vong có thể nói là thấp. Tuy nhiên, khi nhìn thấy xác của người quen ở trước mặt, thì ai có thể vui mừng vì điều đó chứ? Đặc biệt là khi di hài của những người đồng đội sẽ không thể mang về bờ.
“Chúng ta hãy vừa khiêm nhường nhưng cũng đầy long trọng tiễn họ lên một chuyến hành trình mới.”
Những người tụ tập ở boong trên đều ở đây để dự đám tang. Những cái miệng ồn ào giờ đang đóng chặt, chỉ khẽ vang lên tiếng khóc thương cho thi thể của đồng đội. Theo lệnh của Beggar, một tiếng kèn vang lên, và những người tham dự đều đồng thanh cất tiếng hát.
Tiếng hát của những người thuỷ thủ, khàn vì rượu, lạc nhịp và vỡ ra vì khóc, vừa là một lời khóc thương, vừa là một bài cầu siêu tiễn đưa những người đồng đội trong hành trình gia nhập vào hàng ngũ những thuỷ thủ huyền thoại trong quá khứ. Trên tàu không có lò hoả táng và đặc biệt không có nghĩa trang. Thi thể của họ vì thế được trả về biển, nơi mà họ đã dành phần lớn cuộc đời của mình lênh đênh trên những con sóng. Họ được đẩy xuống biển trên một con dốc tạm bợ và chìm xuống nước, mỗi cái xác đều được chất đầy rượu rum và đá dăm để có thể chìm tốt hơn.
Từng người một bắt đầu chuyến đi xuống biển của mình. Bài hát tang lễ vẫn tiếp tục được cất lên. Tiếng hát tuy khàn khàn và dở tệ, vẫn vang vọng sâu sắc trong tâm trí Walm. Mặc dù cái chết của họ mang lại biết bao sự bi thương và đau buồn, Walm vẫn không khỏi cảm thấy bản thân đang ghen tị và ngưỡng mộ họ.
“Mình hẳn phải trông thảm hại và đáng hổ thẹn lắm”, cậu nghĩ. Xác của những người thuỷ thủ đã khuất được xử lý cẩn thận, được đồng đội thương tiếc và được tiễn đưa với cảm xúc. Đây chính là cuộc sống của một thuỷ thủ. Thay vì chỉ đơn giản là vứt xác những người đã khuất xuống biển, họ đã dành thời gian quý báu của mình ra để tổ chức một buổi lễ tiễn đưa. Đây cũng là lý do mà họ có thể chiến đấu và hy sinh mạng sống của mình mà không chút do dự.
Nhưng còn Walm thì sao? Cậu cứ liên tục chiến đấu, tiến về phía trước mà không mảy may dành ra dù chỉ một chút thời gian để tiếc thương cho những người đồng đội đã ngã xuống, để rồi kết quả là cậu lại mất thêm nhiều đồng đội khác. Khuôn mặt của những người mà cậu đã không thể cứu cứ thế hiện lên. Cậu không thể quên đi lời hứa mà bản thân đã không thể giữ, không thể quên đi những người mà cậu đã làm quen trên chiến trường và không thể quên đi khung cảnh quê hương chìm trong biển lửa. Niềm an ủi duy nhất là việc cậu đã tự tay giết chết cha, mẹ và những người quen trong làng. Nhưng như thế thì cũng chẳng đáng là bao. Vì cậu thậm chí còn chả chôn cất họ một cách tự tế; thế thì mọi thứ cậu đã làm còn có ý nghĩa gì chứ?
Nghiến chặt răng đến mức có thể làm chúng vỡ tan, Walm ngắt luồng suy nghĩ của mình. Cậu phải dừng lại. Đây là khoảnh khắc của họ. Những người đã liều mạng sống của mình để bảo vệ và cứu giúp, họ đáng được tiếc thương và vinh danh. Đây không phải là lúc để cậu an ủi thứ bản thân ngu ngốc và đáng hổ thẹn của mình. Nếu tiếp tục làm vậy, thì sẽ chỉ thêm xúc phạm những người đã khuất. Ngay cả khi những người thuỷ thủ còn lại có căm ghét cậu vì điều này, thì cậu cũng không có gì để phàn nàn.
Walm lặng lẽ chắp tay và cầu nguyện, tuy không có đức tin, và đôi tay đã nhuốm quá nhiều máu, cậu vẫn phải cầu nguyện cho những người thuỷ thủ vĩ đại đã xuất sắc hoàn thành nhiệm vụ của mình và qua đời.
Khi thi thể cuối cùng được thả xuống biển, cũng là dấu hiệu cho hồi kết của buổi tang lễ. Tiếng kèn vẫn còn vang vọng trong tai Walm. Vị boong trưởng, thường ngày rất ồn ào, cũng không dám làm phiền những người thuỷ thủ đang khóc. Một người thuỷ thủ với cái chân gãy vẫn tiếp tục gọi tên những người đồng đội đang chìm, với hy vọng rằng một trong số họ sẽ hồi đáp, Walm không muốn nghe thêm nữa.
Tuy nhiên, dẫu cho có đau buồn thế nào đi nữa thì hiện thực cũng không dừng lại để chờ họ. Những người ở boong trên miễn cưỡng rời đi để quay trở lại làm việc. Cuối cùng, Walm, người không còn chút ma lực và nhiệm vụ nào là người cuối cùng ở lại. Cậu thẫn thờ, nhìn chằm chằm vào mặt biển nơi những người thuỷ thủ đã khuất vừa chìm xuống. Mặc dù đã chán ngấy biển. Tuy nhiên, vì một lý do nào đó mà cậu lại không thể rời mắt khỏi nó. Những con sóng vẫn tiếp tục ập đến, khiến cho mặt biển rung chuyển, mảy may không một chút để tâm đến nỗi buồn của con người. Cậu ngước nhìn lên, những đám mây vẫn cứ trôi. Chim biển thì tập trung đến, con thì đậu trên cột buồm quan nhìn xuống phía Walm, những con khác thì đến mổ xẻ xác của đám Sahagin và các bộ phận bị cắt lìa của con Kraken. Walm bỗng cảm nhận thấy có người đang đến gần.
“Hửm? Có chuyện gì thế, Sarshef?”
Walm, không còn tâm trạng nào để nói một câu dí dỏm nào với một người vừa mất đi đồng đội, chỉ đơn giản quay mặt lại nhìn đối phương.
“Walm, cảm ơn vì cậu đã cầu nguyện cho những người bạn của tôi.”
Một cơn đau chạy từ lồng ngực lên đến mắt cậu. Sarshef hẳn đang ám chỉ đến hành động chắp tay cầu nguyện của Walm. Nhưng thực sự thì cậu lại chẳng cao quý đến thế. Tất cả những gì cậu làm chỉ là để che đi nỗi ô nhục của mình.
“Nó chẳng giống một lời cầu nguyện cho lắm.”
“Tôi không biết chuyện gì đã xảy ra, nhưng đừng có tự hạ thấp bản thân mình như thế. Mọi người ở đây đều rất trân trọng cậu, cả những người đã khuất cũng vậy.”
“Ừ, tôi cũng hy vọng là vậy.”
“Walm, tham gia với tôi một lúc được chứ. Tôi vừa bị ép nghỉ vì cạn kiệt ma lực.”
Sarshef lấy ra ba chai rượu rum, đổ hết một chai xuống biển và đưa một chai cho Walm. Không chút phản đối, Walm cầm lấy chai rượu và giơ lên.
“Vì những người đã khuất."
“Đúng vậy, vì sự dũng cảm của họ.”
Cả hai cùng lúc nghiêng chai rượu vào miệng, để rượu rum chảy thẳng xuống họng và vào dạ dày. Khác với thứ cậu đã được nếm qua ở cảng, thứ rượu trong miệng cậu giờ chỉ còn lại một vị đắng.


2 Bình luận